Nhận diện sơn mài truyền thống việt nam trong bối cảnh giao lưu và hội nhập | sơn mài | sơn mài cao

Từ thực tế sáng tác phong phú, đa dạng của thời kỳ có quá nhiều khúc xạ trong nghệ thuật hiện nay, một điều chúng ta nhận thấy là: Nếu như trước đây, khi tiếp xúc với những sản phẩm sơn mài ứng dụng, người nước ngoài không khỏi khâm phục kỹ thuật điêu luyện, tinh xảo của quá trình chế tác cũng như sự phong phú, tinh tế trong chi tiết và kiểu dáng của mỗi sản phẩm thì ngày nay, điều đó khó tìm thấy trong phần lớn các sản phẩm; kể cả từ những làng nghề lâu năm hoặc công ty sơn mài nổi tiếng, hay trong lĩnh vực nghệ thuật hội họa. Nếu như trước đây các họa sĩ trẻ trường Mỹ thuật Đông Dương đã học tập và sử dụng kỹ thuật tạo hình, phối cảnh, màu sắc, bố cục của hội họa châu âu nhưng lại khắc họa được nét đặc sắc tâm hồn của phương Đông trong cách nhìn, cách cảm, cách nghĩ của mình, thì ngày nay, cũng với chất liệu ấy, các họa sĩ trẻ đang khoác cho nó một chiếc áo mới với đủ mọi màu sắc, xu hướng của thời đại. Đây là một tín hiệu đáng vui mừng nhưng đồng thời cũng là hồi chuông báo động về những khuynh hướng lệch lạc của một số họa sĩ chạy theo “kinh tế thị trường” đánh mất tính truyền thống của chất liệu dân tộc.
Mặt khác, xuất phát từ thực tiễn trước một câu hỏi là vì đâu tranh sơn mài được đánh giá tốt như vậy, và hiện nay hướng phát triển như thế nào ? Sự đánh giá tốt về giá trị tranh sơn mài không chỉ nên căn cứ vào người thích nghệ thuật và thị trường bên ngoài - đó là một yếu tố - song chủ yếu là công chúng thưởng thức Việt Nam, những người đã làm nên xã hội mới với tất cả dáng dấp hiện thực sinh động của nó.
Tuy nhiên, trong bối cảnh giao lưu và hội nhập ngày nay, cùng với xu hướng thương mại hóa nghệ thuật, một số họa sĩ làm tranh sơn mài theo kiểu “hàng chợ”, khiến cho nhiều tranh sơn mài không còn giữ được vẻ đẹp của sơn mài truyền thống. Việc chạy theo thị hiếu khách hàng với sự hào nhoáng của nhiều loại chất liệu “phi sơn ta” dẫn đến tình trạng sơn mài giả hiệu, kém phẩm chất đầy rẫy ở các cửa hàng, nhà sách, khu du lịch... Cũng bắt đầu có dư luận chê kỹ thuật theo truyền thống là cổ hủ và một loạt tranh sơn mài phủ bạc dập các màu xanh đỏ rồi phủ lên một lượt sơn bóng Nhật Bản đã xuất hiện làm cho vàng thau lẫn lộn, nghệ thuật chân thực và nghệ thuật giả mạo chen vai thích cánh nhau.
Không chỉ với các hàng mỹ nghệ bị trả lại vì làm ăn dối giả, mà người ta đã bắt đầu chán với các tranh sơn mài giả hiệu đầy rẫy ở khắp nơi. Tác giả cũng như các cơ sở ấy chỉ biết chạy theo lợi nhuận mà quên mất nhiệm vụ duy trì và phát triển một loại hình nghệ thuật dân tộc rất độc đáo này.
Từ những năm 1990, một lớp các họa sĩ trẻ đã và đang tiếp tục tìm tòi về chất liệu và ngôn ngữ nghệ thuật. Trên các tác phẩm của họ có thể gắn cả xi măng, bột đá, sỏi và mảnh cổ vật lên bề mặt tranh để tạo ấn tượng mới lạ. Như vậy có phải là một bức tranh sơn mài hay không ? Hay là, tranh sơn mài “hiện đại” đã đánh mất giá trị truyền thống?
Tình hình ấy đáng đánh một hồi chuông báo động khiến cho mọi người thiết tha với sơn mài phải lưu tâm!
Sơn mài, trước hết được hiểu như một thuật ngữ để chỉ về một loại hình, một chất liệu nghệ thuật có xuất xứ từ nghề sơn truyền thống của dân tộc với sự hiện diện của đồ sơn cổ truyền cho đến khi Trường Mỹ thuật Đông Dương ra đời năm 1925. Sự thể nghiệm, tìm tòi của các họa sĩ trẻ Trường Mỹ thuật Đông Dương như Trần Văn Cẩn, Trần Quang Trân, Nguyễn Gia Trí, Nguyễn Khang..., và nghệ nhân Đinh Văn Thành đã cho ra đời tên gọi “Sơn mài” (laque poncée) với ý nghĩa: sơn - vẽ tranh bằng chất liệu sơn ta (một loại sơn được lấy từ nhựa cây sơn vùng Phú Thọ); mài - vẽ xong rồi mài (hay còn gọi là mài vẽ). Truyền thống, theo họa sĩ - nhà lý luận phê bình Nguyễn Quân đã viết, “như một khái niệm quan trọng trong thời đại giao lưu và thông tin ngày nay, thật không dễ định nghĩa”. Tuy nhiên phần ngữ nghĩa cốt lõi của nó theo suy nghĩ của ông, “truyền thống là sự lấy lại những suy nghĩ, những xúc cảm, những hành vi của một tập đoàn xã hội, của một con người hay một dân tộc. Truyền thống giúp cho con người giữ lại những thành quả của quá khứ để không phải làm lại từ đầu. Truyền thống vì thế là bậc thang để nhân loại tiến lên phía trước” (Tạp chí Nghiên cứu VHNT, số 4 (87), tr.16-20).
Còn đối với họa sĩ Trần Huy Quang thì cho rằng: “Truyền thống là quá trình tập hợp những đúc kết mang tính chuyên môn; tập hợp các quan điểm đánh giá, các kinh nghiệm được thừa nhận, các cách sử dụng theo tập quán hoặc theo thói quen đã được thử thách qua thời gian, được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác” (Sơn ta và nghề sơn truyền thống Việt Nam, NXB Mỹ thuật 2002, tr. 125)
Sơn mài truyền thống Việt Nam được nhìn nhận qua các loại hình mang tính chuyên môn và lịch sử như sau:
- Di vật đồ sơn trang trí, gắn liền với tôn giáo tín ngưỡng và trước hết là phục vụ cuộc sống tinh thần qua các đồ thờ trong chùa, đền, đình, cung điện. Các cột kiến trúc, hoành phi, cửa võng, câu đối, khám vật linh, tứ linh, tứ quý, bát bửu, bát quái, kiệu, võng, long đình, tranh thờ, tranh trang trí. Một số đồ sơn mang chức năng khác, bởi vì mỗi di vật tự thân nó đã chứa đựng chức năng thực dụng và chức năng thẩm mỹ. Việc phân loại những chức năng đồ sơn chỉ là tương đối nhưng những di vật phục vụ đời thường thì không thể là đồ thờ và ngược lại, những di vật chế tác phục vụ đồ thờ thì không thể làm vật dụng của đời thường do yếu tố tâm lý tín ngưỡng đã ăn sâu vào tiềm thức của nhân dân ta trong nhiều thế kỷ.
Qua các thư tịch mô tả, các nghiên cứu đúc kết từ các tư liệu cho thấy đồ sơn có những đặc tính ưu việt của nó mà những loại di vật khác như đồ đồng, đồ đá hay đồ gốm không thể nào thay thế được, như:
1. Tính hấp dẫn ở màu sắc lộng lẫy, trang nghiêm và sang trọng.
2. Tính hoành tráng và đa dạng của những hiện vật có cốt khác nhau sau khi đã phủ sơn làm thay đổi một cách căn bản hình thức bên ngoài, tạo sự liền khối, đồ sộ và đa dạng với mọi kích thước to nhỏ, dài rộng, hình khối, hình dẹt, phẳng, đường cong mảnh mai, đường viền to lớn hoặc nhỏ bé...
3. Tính kết dính và hòa hợp của sơn với một số loại vật liệu cốt. Khi kết dính các vật liệu với nhau hoặc giữa vật liệu với sơn thì vật liệu trở thành bổ trợ, còn sơn trở nên chính. Do đó, người ta gọi chúng là đồ sơn, hàng sơn.
4. Tính bền đẹp và giản dị nhờ màu sắc và nghệ thuật trang trí nên đồ sơn có vẻ đẹp chân phương, sâu lắng. Đẹp trong sự bền vững và bền vững nhưng không thô kệch, nặng nề và diêm dúa.
5. Tính khái quát và chi tiết. Đồ sơn không chỉ thể hiện được tính khái quát, ước lệ trên vật thể ở hình khối, sắc độ mà còn thể hiện được tính chi tiết, tỉ mỉ trong trang trí nhưng không làm rối, làm nát sản phẩm nhờ màu sơn với những sắc độ khác nhau mà sản phẩm trở nên sinh động của một tổng thể hình khối thống nhất.
6. Tính dễ bảo quản và dễ tôn tạo. Do đặc tính lý, hóa học, sơn đã góp phần hạn chế đến mức cao nhất sự phá hoại của côn trùng, mối mọt và điều kiện tự nhiên nhiệt đới gió mùa. Đồ sơn không chỉ dễ bảo quản mà còn dễ sửa chữa, dễ gắn, dễ chắp vá khi bị sứt mẻ hoặc gãy vỡ.
- Sản phẩm đồ sơn ứng dụng, phục vụ nhu cầu của con người, trở thành đối tượng sử dụng trong cuộc sống đời thường của nhân dân lao động qua các đồ hiếu hỷ, đồ dùng: hộp, khay, khung, khảm, thúng, thuyền..., đồ gia dụng: tủ, bàn, ghế..., đồ lưu niệm, tặng phẩm, tranh sơn mài mỹ nghệ... Đồ sơn không chỉ là những vật dụng đơn thuần mà trong nó đã được nâng lên thành hàng hóa. Sản phẩm đồ sơn hiện nay khá phổ biến trong cuộc sống đời thường của nhân dân lao động và có những giao lưu cởi mở với các nước khác trong khu vực và thế giới (so với Việt Nam, đồ sơn Trung Quốc phong phú và đa dạng hơn về kiểu dáng và màu sắc với các màu xanh lục và cẩm thạch, trong khi đồ sơn Việt Nam chỉ có 3 màu: đen, đỏ và vàng. Nghệ thuật trang trí đồ sơn Việt Nam dung dị, khái quát và ước lệ, còn đồ sơn Trung Quốc thường trang trí công phu, tỉ mỉ và chi tiết với màu sắc tối sáng, ẩn hiện, cho thấy đồ sơn Việt Nam và Trung Quốc có những đặc thù phát triển riêng, song chắc rằng giữa chúng đã có mối giao lưu trao đổi nhất định).
Qua quan sát, đối chiếu và phân tích, chúng ta nhận thấy rằng:
1. Tất cả các sản phẩm này đều được tạo ra bởi kỹ thuật điêu luyện và chứa đựng yếu tố nghệ thuật (tính thẩm mỹ của sản phẩm).
2. Sản phẩm là những vật dụng chủ yếu cung cấp cho đời sống thường ngày cũng như đời sống tâm linh, tín ngưỡng.
3. Sản phẩm là những mặt hàng có tính thủ công mỹ nghệ, trong quá trình chế tác, các công đoạn chủ yếu đều được làm hoặc vẽ bằng tay.
4. Sản phẩm đều được chế tác bằng kỹ thuật có tính cổ truyền qua các công đoạn như: chuẩn bị cốt - vóc; Vẽ nhiều lớp; Phủ dày; Mài vẽ; Đánh bóng hoàn thiện hoặc sơn quang bằng những nguyên vật liệu chủ yếu được sử dụng có tính chất truyền thống như: vàng lá, bạc lá, vỏ trai, vỏ xà cừ, màu son- và đặc biệt là sơn ta - một loại nhựa lấy từ cây sơn có tên khoa học là Rhus Succdanea, được trồng nhiều ở miền Bắc nước ta như Yên Bái, Nghĩa Lộ, Phú Thọ...
Trong kho tàng nghệ thuật truyền thống Việt Nam, chất liệu sơn ta đóng một vai trò hết sức quan trọng ở những “Hợp thể nghệ thuật kiến trúc - điêu khắc và trang trí”, những sản phẩm sơn mài mỹ nghệ trong đời sống vương giả, đời sống tâm linh đã trải qua hàng thiên niên kỷ đến nay, vẻ đẹp được sáng tạo từ chất liệu này làm lộng lẫy nội thất, đồ vật cung đình, đến các chùa, đền, đình, miếu... Những tượng Phật đến những đồ dùng từ sang trọng, quý phái đến dân dã. Giá trị sử dụng vừa đẹp vừa bền chắc với thời gian, gắn bó với tâm thức, mỹ thức dân tộc.
-Tranh sơn mài Việt Nam, qua các tác phẩm thể nghiệm, nghiên cứu và ứng dụng kỹ thuật cổ truyền vào việc sáng tác nghệ thuật của các nghệ nhân và họa sĩ Trường Mỹ thuật Đông Dương.
Nghệ thuật sơn mài đã có những chuyển biến rất độc đáo, tinh tế trên mặt tranh: vỏ trứng trắng và cứng được họa sĩ dùng để diễn tả chất da thịt mềm mại, màu vàng óng ả đã biến thành ánh sáng mặt trời khi mô tả cảnh đẹp thiên nhiên, màu sơn son thếp vàng quyền quý trở thành dung dị khi diễn tả cỏ cây, mặt nước, quần áo, nhân vật. Tính chất huyền ảo, sâu thẳm của sơn mài đã được các họa sĩ diễn đạt về những đề tài thích hợp: tâm trạng lãng mạn hay sinh hoạt thôn xóm, cảnh thiếu nữ vui chơi trên mặt hồ, cảnh đình làng vào hội, cảnh đêm trăng v.v
Ngoài những màu sắc đã sử dụng: đen, đỏ, nâu, vàng, bạc nay có thêm những hòa sắc mới như lam và lục, làm phong phú thêm bảng màu sơn mài mà vẫn giữ được bản sắc của chất liệu. Sơn mài thực sự trở thành một loại hình nghệ thuật hội họa độc đáo, những tác phẩm: Tát nước đồng chiêm của họa sĩ Trần Văn Cẩn, Đánh cá đêm trăng của họa sĩ Nguyễn Khang, Bên đầm sen của họa sĩ Nguyễn Gia Trí, Con nghé, Thánh Gióng, Điệu múa cổ của họa sĩ Nguyễn Tư Nghiêm, Hành quân qua bản cũ của họa sĩ Lê Quốc Lộc, Nhớ một chiều Tây Bắc của họa sĩ Phan Kế An, Trái tim và nòng súng của họa sĩ Huỳnh Văn Gấm, Tổ đổi công miền núi của họa sĩ Hoàng Tích Chù, Nhà tranh gốc mít của họa sĩ Nguyễn Văn Tỵ, Kết nạp Đảng ở Điện Biên Phủ của họa sĩ Nguyễn Sáng, Bình minh trên nông trang của Nguyễn Đức Nùng, Cảnh Trung du của họa sĩ Phạm Đức Cường, Cái bát của họa sĩ Sỹ Ngọc, Thôn Vĩnh Mốc của họa sĩ Huỳnh Văn Thuận v.v... là những minh chứng cho thành quả của một giai đoạn hội họa sơn mài Việt Nam.
Thiết nghĩ, bảng màu của sơn mài truyền thống tự thân nó ít ỏi, tuy nhiên từ trước tới nay chưa có ai - kể cả các họa sĩ nổi tiếng - dám cho là mình đã khai thác hết khả năng của chất nhựa cây kỳ diệu mà tự nó đã có thể biến hóa thành hai màu chủ yếu: Cánh gián và then, rồi từ hai màu này lại có thể tạo ra vô số những sắc nhị và sắc độ khác nhau. Việc tiếp thu truyền thống trong tranh sơn mài trước hết là ở khâu chế biến nhựa sơn qua các công đoạn nghiêm ngặt, vất vả và khả năng ứng dụng chất nhựa sơn vào tác phẩm của từng nghệ sĩ như thế nào, chứ không phải vay mượn một loại sơn công nghiệp ngoại nhập khoác lên nền vóc những vật liệu mỹ nghệ rẻ rúng, không chịu được sự thử thách của mắt nhìn và thời gian.
Họa sĩ không chỉ vẽ bằng mắt và tay mà vẽ bằng cả trái tim và cái đầu nữa. Do đó, khi nói đến truyền thống trong tranh sơn mài không chỉ đề cập đến kỹ thuật chất liệu mà phải xem xét cả phong cách tạo hình và nội dung chủ đề. Đây lại chính là bản lĩnh sáng tác của họa sĩ, là khả năng biểu cảm nghệ thuật thông qua phong cách trong bố cục, trong việc xây dựng hình tượng điển hình và trong bút pháp, màu sắc diễn tả. Bởi vì, chất liệu dù có quý giá, quan trọng nhưng sẽ vô hồn nếu thiếu bàn tay của người nghệ sĩ mang đến cho nó một sức sống rung động lòng người. Cần có những họa sĩ tài năng, cảm nhận sâu sắc chất liệu và làm chủ kỹ thuật biểu hiện. Để có được một bố cục, một phong cách tạo hình và một chất liệu phù hợp với chủ đề tư tưởng của một tác phẩm không phải là một công việc dễ làm và trong một sớm một chiều của một người “dễ tính”. Để có được tính truyền thống đó, người nghệ sĩ phải sống, học hỏi và lao động như thế nào?!
Sau cùng, truyền thống được nhắc đến như một phương pháp nhìn nhận, chắt lọc và tái hiện cuộc sống. Cha ông ta từ bao đời nay với đức tính cần cù, trung thực, lạc quan, vị tha để chiến thắng thiên nhiên khắc nghiệt cũng như mọi quân thù xâm lược, đã hình thành nên một “cách nhìn biểu tượng” vô cùng thực tế, cụ thể nhưng cũng vô cùng tinh tế, lạc quan, cho nên, công chúng thưởng thức khó có thể chấp nhận xu hướng gợi cảm thông qua những trào lưu nghệ thuật, nhất là với những gợi cảm “vô hình” hay “siêu hình” như hiện nay của một số họa sĩ.
Do đó, khả năng nắm bắt và tái hiện cuộc sống thực tế như là mạch nguồn chảy xuyên qua bao thế hệ nghệ sĩ như một lời động viên hun đúc: Vẽ cái gì, vẽ cho ai và vẽ như thế nào ? Họa sĩ có quyền chọn một đề tài nhất quán trong sự nghiệp sáng tác cũng có thể cùng lúc vẽ nhiều đề tài phản ánh cuộc sống vận động quanh mình. Cái cần học ở truyền thống, ở các tác giả lớn là cách nhìn đời sống chứ không phải là những nét hình cụ thể trong tác phẩm. Tất cả là ở thái độ của người vẽ trước cuộc sống. Bởi vì, nghệ thuật chính là con người nghệ sĩ thông qua tác phẩm được công chúng chấp nhận. Đó chính là một yếu tố không thể thiếu của truyền thống và cũng chính là quan điểm nghệ thuật của người nghệ sĩ chân chính vậy.
Quy luật phát triển của nghệ thuật Việt Nam là sự thống nhất giữa truyền thống và hiện đại, giữa nhân tố bản địa và nhân tố ngoại nhập, giữa đối tượng được phản ánh với chủ thể phản ánh. Vấn đề đặt ra không phải là mới hay cũ về mặt hình thức và phương tiện biểu hiện mà ở chỗ nó đáp ứng được nhu cầu thẩm mỹ của nhân dân Việt Nam.
Qua ba góc độ của sơn mài truyền thống Việt Nam: sơn mài trang trí, sơn mài ứng dụng và tranh sơn mài, ta nhận thấy rằng để có được vẻ đẹp tuyệt mỹ của một sản phẩm hay một tác phẩm sơn mài, không chỉ đơn giản ở kỹ xảo, kỹ năng chế tác hay kỹ thuật thể hiện, mà nó được tạo ra bởi sự kết hợp giữa ba yếu tố chính, đó là: chất liệu, kỹ thuật và nghệ thuật trang trí. Trong sơn mài truyền thống, các nghệ nhân đã thành công khi sử dụng ba phương pháp chính của nghệ thuật trang trí đó là: trang trí bằng các mảng màu, trang trí bằng tạo chất bề mặt, trang trí bằng hoa văn. Chính nghệ thuật trang trí trong sơn mài là yếu tố cơ bản nhất của truyền thống các nghề thủ công mỹ nghệ cũng như truyền thống mỹ thuật. Nó cũng chính là yếu tố quyết định để có thể kết luận sơn mài truyền thống (dù ở góc độ trang trí, ứng dụng hay nghệ thuật) đều là một bộ phận của mỹ thuật Việt Nam, hiện diện đều khắp đồng thời tương hợp với ba lĩnh vực chính: Mỹ thuật tạo hình; Mỹ thuật truyền thống và Mỹ thuật ứng dụng ngày nay.
Mỗi lĩnh vực có vai trò, vị trí, tác dụng, đặc trưng và phương thức hoạt động riêng, nhưng đều đóng góp vào việc bảo tồn và phát triển bản sắc văn hóa dân tộc, và cả ba loại hình đều thâm nhập, ảnh hưởng và tác động lẫn nhau, thúc đẩy nhau cùng phát triển trong một phong cách chung của mỹ thuật đương đại mang đậm tính cách Việt Nam.
Sự tồn tại và phát triển của văn hóa nghệ thuật ở mỗi dân tộc, mỗi quốc gia xưa nay bao giờ cũng chịu quy luật tác động, ảnh hưởng hay giao lưu khách quan lẫn nhau. Trong tiến trình lịch sử, có những chủng loại hay chất liệu nghệ thuật như gốm sứ, đồng thau, sơn dầu, sơn mài, v.v... Nhiều dân tộc, nhiều vùng đều có, kể cả cùng một thời kỳ, song ở mỗi vùng, mỗi dân tộc đều có những đặc thù riêng, không giống nhau (bao gồm những chủng loại, chất liệu giao lưu, du nhập từ dân tộc này sang dân tộc kia).
Chính những gì không giống nhau đó là những sáng tạo độc đáo, những bản sắc riêng của từng dân tộc hay của từng vùng. Tìm đúng những bản sắc riêng, những sáng tạo độc đáo đó, cũng là phát hiện được những tương đồng và dị biệt giữa các nền văn hóa.
Nghề sơn được hiểu như một nghề truyền thống, phát triển trên cơ sở hình thành những quần cư nông nghiệp lúa nước. Ban đầu, việc dùng nhựa sơn chỉ có ở vùng Viễn Đông như Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên, vùng Đông Nam á như Việt Nam, Lào, Campuchia hay Thái Lan. Xuất phát điểm của nó rất có thể từ Trung Quốc rồi lan dần sang các nước khác theo một tiến trình giao lưu văn hóa từ vùng này sang vùng khác.
Từ đó, ta thấy rằng, sơn mài Việt Nam trong quá trình phát triển, ít nhiều chịu ảnh hưởng, tác động của sơn mài các nước, nhất là Trung Quốc, nhưng vì sao vẫn khẳng định được bản sắc riêng, độc đáo của mình?
Sơn mài Việt Nam có chung một tiếng nói với sơn mài các nước ở tính trang trí, tính ứng dụng, phục vụ đời sống sinh hoạt và tín ngưỡng của con người, mang ý nghĩa thực dụng và thẩm mỹ, là đỉnh cao của nghề thủ công mỹ nghệ truyền thống. Nhưng bên cạnh đó, từ nửa đầu TK XX, sơn mài truyền thống Việt Nam còn có thêm một giá trị mới mang tính nghệ thuật, đó là đưa chất liệu sơn ta cổ truyền thành chất liệu của hội họa bằng sự ra đời của tranh sơn mài trên nền tảng kỹ thuật sơn truyền thống. Tranh sơn mài Việt Nam vẫn tuân thủ nghiêm ngặt quy trình và kỹ thuật từ khâu làm vóc cho đến thể hiện màu sắc nhiều lớp, phủ mài, phủ toát, đánh bóng... để cho ra đời những bức tranh sơn mài rất Việt Nam mà không một quốc gia nào có được.
Nhìn chung, sơn mài các nước đều mang tính ứng dụng, trang trí, chưa một quốc gia nào thể hiện tranh sơn mài thành công như Việt Nam. Tranh sơn mài của các nước đa số là phủ mài (vẽ mỏng một lượt, sau đó mài rồi phủ lên một lớp sơn hoặc verni), không vẽ dày nhiều lớp như tranh sơn mài Việt Nam. Chính trong tên gọi tranh sơn mài, sơn - vẽ tranh bằng chất liệu sơn ta; mài - vẽ xong rồi mài (hay còn gọi là mài vẽ). Tác dụng mài là làm phong phú, sống động hình vẽ mang tính chất hội họa dưới nhiều lớp màu chồng chất. Họa sĩ mài để lộ ra điều mong muốn đúng chỗ, đúng cảm xúc mang yếu tố ngẫu nhiên quý báu hoặc bất thần tìm được trong lúc mài để làm thành một tác phẩm hội họa diệu kỳ và độc đáo... Điều này không nằm trong quy luật sản xuất hàng loạt.
Một yếu tố quan trọng khác là chất sơn lấy từ cây sơn vùng Phú Thọ, Yên Bái của Việt Nam, được gọi là sơn ta (để phân biệt với sơn Nhật, sơn Nam Vang, sơn điều hay sơn công nghiệp, sơn Tây), là một trong các loại nhựa sơn tốt nhất. Điều này góp phần cho nghệ thuật sơn mài Việt Nam có một sắc thái riêng trong gia đình châu á và cả thế giới (nhất là những quốc gia không có cây sơn hoặc chỉ dùng sơn công nghiệp) nói chung. Tuy cũng là chất nhựa của cây sơn, nhưng sơn của ta không dễ lẫn với sơn của Nhật Bản hay Trung Quốc... Sơn chỉ là chất liệu ban đầu nhưng cộng với kinh nghiệm pha chế cổ truyền dân tộc thành sơn Việt Nam .
Nhìn lại quá trình hình thành và phát triển của sơn mài truyền thống, chúng ta không khỏi ngạc nhiên trước sự phong phú và đa dạng của nó ở cả ba mảng trang trí, ứng dụng và nghệ thuật. Không thể so sánh một cách khập khiễng các loại tranh sơn mài được thể hiện theo các hình thức khác nhau để cho rằng tranh nghệ thuật là “cao” hơn tranh mỹ nghệ vì mỗi một loại hình sơn mài là một chức năng với kỹ thuật diễn đạt độc đáo. Đặc tính độc lập của sơn mài mỹ nghệ là đề cao và phát huy về mặt kỹ thuật thể hiện, với những loại đề tài thường có sẵn. Bởi do tính trang trí luôn là nền tảng cho sự vươn tới của sơn mài mỹ nghệ, thế nên các nghệ nhân dần dần nâng cao giá trị sản phẩm bằng cách khơi sâu nhiều đề tài và tìm tòi trong kỹ thuật chất liệu. Họ đã nghiên cứu đưa sơn Nhật vào thay thế chất liệu sơn ta.
Về bản chất mà nói, sơn Nhật không hơn sơn ta, nó chỉ giúp cho sơn mài mỹ nghệ đạt hiệu quả cao trong kỹ thuật (bóng loáng, ít trở ngại trong thời tiết...) nhưng ngược lại là một chất liệu không hồn, dễ làm cho tranh trở nên xơ cứng, không bền. Chất sơn Nhật khi đưa vào tranh nó sẽ chiếm vị trí độc lập trong suốt quá trình hoàn thành sản phẩm. Nó là chất liệu mới của sơn mài mỹ nghệ và không bao giờ liên kết được với chất sơn ta truyền thống. Tranh sơn Nhật đem lại vẻ đẹp hào nhoáng bên ngoài, thu hút người xem khi chỉ mới thoạt nhìn, không chứa đựng nội dung mang tính chất sâu lắng.
Những năm gần nay, người ta còn tìm ra một chất liệu nữa cho sơn mài mỹ nghệ, đó là sơn hạt điều (lấy từ mủ hạt điều) có nhiều ở Việt Nam.
Chất lượng của sơn Nhật kém hẳn so với sơn ta, nhưng với giá thành rẻ, nó có thể giúp cho nghệ nhân làm ra nhiều sản phẩm bậc thấp, phục vụ thị hiếu của mọi thành phần trong xã hội. Mặc dù có nhiều chất liệu mới, nhưng sơn ta vẫn là chất liệu chính trong tranh sơn mài ứng dụng, và cũng như ở nghệ thuật thể hiện, luôn tách biệt các loại hình sơn mài, thì ở lĩnh vực ứng dụng cũng rõ ràng cho từng chất liệu sơn, không lẫn lộn. Mỗi chất liệu sơn mài sẽ làm đặc trưng riêng cho một loại tranh mỹ nghệ, đề cao vẻ đẹp riêng của từng chất liệu ấy (cho dù nó là sơn ta, sơn Nhật, sơn công nghiệp hay sơn điều...). Đồng thời các chất liệu này cũng phải được tìm và chọn sao cho hợp với cách thể hiện của mỗi loại sản phẩm hay tranh, vừa đơn giản vừa thích ứng nhu cầu thị hiếu và thị trường.
Tất cả những điều đó là khả năng độc lập thuần túy vốn có của chất liệu sơn mài ứng dụng Việt Nam được thể hiện trong sản phẩm hoặc tranh mỹ nghệ hiện đang góp mặt trên thị trường trong và ngoài nước. Đây là hệ quả tất yếu của quá trình giao lưu và hội nhập mà nghề sơn truyền thống của ta phải đi đến. Sự phân hóa từ đồ sơn cổ truyền đến sơn mài ứng dụng và tranh sơn mài đã tạo nên diện mạo phong phú cho nghệ thuật sơn mài Việt Nam. Chúng ta chấp nhận hiện thực sinh động này như một yếu tố ngoại sinh để làm động lực cho nguồn lực nội sinh tiếp tục phát triển và khẳng định.
Từ những nhận định trên, ta có thể khẳng định nghệ thuật sơn mài Việt Nam đã thật sự trở thành vốn quý của dân tộc và cả nhân loại vì ngoài sự hiện diện trong trang trí ứng dụng, cùng với các nước trên thế giới, đưa sơn mài vào phục vụ đời sống vật chất và tinh thần của con người, sơn mài Việt Nam còn đóng góp cho nghệ thuật hội họa một chất liệu mới mang đầy đủ bản sắc dân tộc và thời đại.
Với những giá trị cao đẹp đó, sơn mài truyền thống Việt Nam, đã thật sự là hiện thân của tính dân tộc trong nghệ thuật qua bao thăng trầm của lịch sử mà trong bối cảnh giao lưu, hội nhập ngày nay, chúng ta cần nhận diện lại một cách toàn diện và nghiêm túc để có những ứng xử và động thái trân trọng với những gì cha ông để lại, như PGS - TS Nguyễn Tri Nguyên đã viết: “Di sản văn hóa mà cốt lõi của nó là truyền thống văn hóa, đóng một vai trò rất quan trọng với tư cách là nguồn lực nội sinh cho quá trình tiếp biến văn hóa. Trên con đường hiện đại hóa văn hóa, xã hội và con người, một sự phát triển nội sinh của văn hóa dân tộc, - xuất phát từ những nhu cầu và điều kiện bên trong, có vai trò động lực. Truyền thống văn hóa dân tộc đã chuẩn bị cho văn hóa phát triển theo hướng hiện đại. Chỉ với một sự phát triển như thế mới có thể vừa đổi mới, vừa giữ gìn bản sắc dân tộc của văn hóa. Trong sự phát triển đó, yếu tố giá trị được gia tăng”. (Văn hóa - tiếp cận lý luận và thực tiễn, NXB Văn hóa Thông tin Hà Nội 2006).

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Những bức tranh sơn mài của Nguyễn Gia Trí

Chính thức khởi động hành trình đưa sơn mài thành di sản thế giới

Những bức tranh sơn mài nổi tiếng